Đức Tổ Sư Ma Ha Sa Môn Tuệ Bích Phổ Giác là đệ tử của Thiền Phái Trúc Lâm Yên Tử và là người tiếp nối dòng thiền thời Trần sau 400 năm bị thất truyền. Bên cạnh đó, Ngài cũng có công lao rất lớn trong công cuộc trùng tu ngôi Bảo Quang Tự được xây dựng từ thời Phật Hoàng Trần Nhân Tông vào thế kỷ XIII (nay là chùa Ba Vàng – ngôi chùa có tòa chính điện trên núi lớn nhất Đông Dương). Hướng tới kỷ niệm ngày giỗ của Tổ Sư, ngày 23/8/âm lịch hàng năm, kính mời quý Phật tử cùng tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp của Ngài qua bài viết dưới đây.
Tiểu sử của Sư Tổ chùa Ba Vàng
Tổ Sư Ma Ha Sa Môn Tuệ Bích Phổ Giác có pháp danh là Trúc Lâm Ma Ha Sa Môn Tuệ Bích Phổ Giác. Ngài sinh ngày 06 tháng 01 năm Mậu Tuất (1658) vào thời vua Lê Hiển Tông. Ngài xuất gia tu hành từ khi còn ít tuổi và sau đó trở thành hậu duệ của Tam Tổ Trúc Lâm.

Sinh ra và lớn lên trong thời kỳ Lê Mạt, nhà Lê là đỉnh cao của chế độ phong kiến tập quyền, vì vậy để củng cố địa vị của mình, nhà cầm quyền phong kiến đã coi trọng Khổng giáo và coi nhẹ Phật giáo (đưa Phật giáo xuống hàng thứ hai sau Khổng giáo).
Trong thời kỳ đó, Sư Tổ đã chứng kiến biết bao thăng trầm của lịch sử: Nội chiến Nam Bắc triều, Trịnh Nguyễn phân tranh,… đã đẩy lịch sử Việt Nam vào con đường tăm tối. Chính trong bối cảnh lịch sử ấy cùng với dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử đang bị thất truyền sau 400 năm thì sự xuất hiện của Sư Tổ như ngọn đèn thắp sáng những ngày đêm u tối với mong nguyện làm sống lại dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử đã bị lu mờ gần ba thế kỷ để đạo Pháp được sáng tỏ, đất nước bình yên. Vậy nên, Ngài đã quyết định ly gia cắt ái, xả thân cầu đạo để thành tựu được sở nguyện tiếp nối mạng mạch Phật Pháp do chư Tổ truyền trao. Đạo lực vững vàng, Ngài dời non thiêng Yên Tử đến Thành Đẳng sơn để lập am tu tập và hoằng truyền Phật Pháp.